Elder flower extract– chiết xuất hoa cây cơm cháy– là một chất làm se da nhẹ và là một chất kích thích nhẹ. Nó được dùng chủ yếu như một chất vận chuyển cho lotion vùng da và vùng mắt. nó được ghi nhận là có tác dụng cục bộ đối trong điều trị da
Elecampane (Inula helenium) (horseheal; scabwort)– cây thổ mộc hương– tính chất thảo dược dùng cục bộ của nó được mô tả gồm tính làm se da và sát khuẩn. trong quá khứ, nó được dùng điều trị nhiều vấn đề về da cho con người và động vật. tên thông thường của nó, thổ mộc
Elm bark (Ulmus sp.)– vỏ cây đu– được xem là chiết xuất cho da gặp nhiều vấn đề do tính làm lành vết thương và lên da non được nhiều người biết đến. Chiết xuất từ lá cây đu được chỉ định bởi các nhà thảo mộc học trong việc rửa sạch các vết thương,
Embryo extract (embryonic extract)– chiết xuất phôi– việc sử dụng chiết xuất này phụ thuộc vào lý thuyết lượng hormone cụ thể có thể giúp làn da trẻ lại. đây là một khái niệm còn đang gây tranh cãi do một số nhà khoa học phủ nhận giá trị của chiết xuất này trong khi
Emulsifying wax– sáp nhũ hóa– là một chất nhũ tương hóa và làm đặc được dùng cho cơ thể trong quá trình điều chế. Không giống một số loại sáp (ví dụ như sáp ong), nó không hoàn toàn là một loại sáp đúng nghĩa. Nó là một hỗn hợp hóa học của các chất
Emulsifying wax NF – sáp nhũ hóa NF– loại sáp này giống sáp nhũ hóa và được xem là nguyên liệu thô không gây nổi mụn. NF là tên viết tắt của tên National Formulary. Nó cho thấy sự hài lòng về chất lượng với biểu tượng hai chữ cái lồng vào nhau đậm chất
Epidermal lipid extract– chiết xuất lipid lớp thượng bì– là một ví dụ về việc miêu tả một chất chưa rõ ràng trên một số nhãn sản phẩm. Thật vậy, nó có thể là dầu hoặc chất béo được chiết xuất từ phần thượng bì. Điều này là không thật sự rõ ràng cho một
Erythrityl triethylhexanoate– là chất có thể được đưa vào công thức chăm sóc da vì nhiều mục đích bao gồm chất làm mềm và dung môi. Nó có thể giữ da ở tình trạng tốt.